Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Một góc nhìn giữa cắt lỗ và bán được chia sẻ nợ.

Từ đó, ngân hàng tiếp chuyện giải ngân, cấp thêm hạn mức cho khách hàng, hoặc giải ngân duyệt các cá nhân/DN có can dự để khách hàng dùng số tiền này trả lãi/đáo hạn khoản vay cũ. Song song, ngân hàng phải gánh chịu nhiều hoài cho những khoản nợ xấu như: phí huy động vốn, tổn phí dự phỏng rủi ro, phí tổn quản lý, xử lý nợ xấu và đặc biệt là uổng thời cơ khi nguồn vốn bị chiếm dụng dưới hình thức nợ xấu không thể quay trở lại lưu thông.

Thực tế, NĐT nắm giữ chứng khoán khi thị trường đi xuống và mua vào để bình quân giá là việc làm mạo hiểm. Cắt lỗ chứng khoán có thể dễ dàng thực hiện chỉ trong một hoặc vài phiên giao du, nhưng việc xử lý nợ xấu có thể kéo dài nhiều tháng, thậm chí hàng năm. Tuy nhiên, cũng phải ngóng một thực tiễn rằng, tính “thanh khoản” của nợ xấu là rất thấp.

Không nhiều NĐT thành công theo cách này, đó là những NĐT với mục đích nắm giữ, chi phối DN và những NĐT giá trị, trường vốn. Cắt lỗ đúng thời điểm giúp NĐT bảo toàn vốn để có thể bắt đáy đúng lúc với mức giá tốt nhất.

Việc kéo dài thời kì xử lý nợ xấu cũng đồng nghĩa với nguy cơ mất vốn càng cao. Trong khi đó, nhà băng thường: 1) thu hồi nợ trước hạn để thu hồi vốn gốc, hoặc đề nghị khách hàng bổ sung tài sản đảm bảo nếu tình hình tài chính của khách hàng không khả quan; 2) cơ cấu nợ, giãn nợ, khoanh nợ với kỳ vọng tình hình tài chính của khách hàng có khả năng tốt trở lại.

Câu nói này có thể vận dụng cho các Nhà băng khi đứng trước áp lực xử lý nợ xấu như bây chừ. Đa phần các NĐT, để hạn chế thua lỗ khi chứng khoán đang nắm giữ giảm giá, đến một giới hạn nào đó sẽ chọn giải pháp cắt lỗ nhằm bảo toàn vốn. Đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng, khi phát sinh nợ xấu, thay vì tìm cách xử lý nợ xấu, gia tăng các tỷ lệ an toàn, thì có ngân hàng lại dùng các biện pháp “làm đẹp” nợ xấu như: giãn nợ, khoanh nợ, thậm chí đảo nợ.

Phạm Thanh ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN. Đến khi khách hàng không còn khả năng trả nợ, nợ xấu lúc này đã trở lên quá xấu và lớn hơn rất nhiều so với thời khắc đáng đúng ra nó nên được xử lý mạnh tay.

Câu nói các NĐT chứng khoán hay dùng để trấn an nhau trước và sau mỗi lần cắt lỗ là “còn vốn là còn tất cả”. Kinh nghiệm trong đầu tư chứng khoán cho thấy, NĐT càng chần chờ trong việc cắt lỗ khi thị trường đi xuống thì thiệt hại càng lớn.

Tuy nhiên, đối với những khách hàng có tiềm lực tài chính yếu, những việc làm nêu trên chứa đựng nhiều rủi ro, góp phần làm cho nợ xấu ngày một xấu thêm. Tuy nhiên, không ít trường hợp, sau khi giải ngân, chứng khoán nắm giữ bị mất giá và trở thành khoản đầu tư xấu, hoặc khoản cho vay do một số duyên cớ nào đó trở nên những khoản nợ xấu.

Đối với một số khách hàng có tiềm lực hoặc những ngành có triển vọng tốt, những việc làm nêu trên sẽ là cơ hội cho khách hàng phục hồi sinh sản - kinh dinh, từ đó nhà băng có thể thu hồi vốn và lãi vay.

Đứng trước tình huống này, NĐT chứng khoán thường: 1) chóng vánh cắt lỗ để thu hồi vốn đầu tư nếu cho rằng, thị trường tiếp kiến xấu hoặc chưa thể khởi sắc; 2) tiếp kiến nắm giữ chứng khoán và giải ngân thêm để bình quân giá, nếu kỳ vọng thị trường sẽ khởi sắc trong mai sau gần. Kinh nghiệm xử lý “nợ xấu” trong đầu tư chứng khoán có thể bổ ích cho các nhà băng.

Trong hoạt động đầu tư chứng khoán, việc cắt lỗ không phải là một thất bại. Nhà băng cũng như NĐT chứng khoán, khi tiến hành giải ngân, đều mong muốn thu hồi được vốn và một khoản lãi nhất thiết.