Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Góc khuất giữa lòng di sản thế giới.

Tàu của anh có kí hiệu TTH-0079, thuộc đội 27, hiệp tác xã đường sông Huế, riêng đội của anh gồm có sáu thuyền

Góc khuất giữa lòng di sản thế giới

Nói xong, anh phóng tầm mắt ra xa trên dòng Hương, nhìn những bọt sóng nhỏ nhoi với ánh nhìn đượm buồn. Nhiều khi, vợ anh phải lặn lội lên bờ để mua thêm nhu yếu phẩm theo yêu cầu của khách.

Đến nay, ở một số thị xã xung quanh thị thành như Hương Thủy, Hương Trà là còn các xóm vạn đò còn ở trung tâm Huế thì cư dân vạn đò đã lên bờ, chỉ lái thuyền rồng để làm du lịch kiếm sống qua ngày. Nếu ai cũng làm điều rưa rứa như ông Hiền thì hay biết mấy! Đang suy nghĩ triền miên, ông Hiền đưa chúng tôi về thực tại khi đạp xe qua đại lộ Lê Duẩn và giới thiệu con đường này là lớn nhất ở Huế, chạy dọc theo sông Hương và tường thành đại nội, lại phủ kín cây xanh, mang nét đương đại hòa lẫn với quá khứ.

Nhà thuyền sẽ lo tiền vào bến (10. Lúc say xỉn, khách lăn ra ngủ lại là lúc vợ chồng anh “thu dọn chiến trường” để mai sau, khách tỉnh ngộ dậy lại thấy khoang thuyền sạch sẽ, tiêm tất.

Họ sống và rất có nghĩa vụ trong việc truyền bá du lịch cố đô bay đi muôn phương. Mỗi thuyền phải đóng mất khoảng 300 triệu đồng. Thời đó, các trục lộ trên cạn chưa khai thông, việc di chuyển từ vùng này sang vùng khác, cũng như việc vận tải quân lương, khí giới của triều đình nhà Nguyễn phải nhờ vào thủy lộ, thành thử triều đình mới cho lập các vạn đò ở hai bên sông Đông Ba và sông Hương để trưng dụng khi cần.

Giá chỉ một triệu đồng. Giả dụ người La Mã vào đền thờ phải ngước lên để chiêm ngưỡng thì trái lại, người La Mã lại cúi xuống để ngẫm ngợi về một thời kì văn minh đã qua. Nhận tiền bo của khách khi chấm dứt hành trình, ông già mừng ra mặt vì ít ai cho thêm ông tiền.

000 đồng/lượt) cùng với tiền tám lít dầu cả đi lẫn về. Lắm hôm nhà cũng không có gạo nấu cho sắp nhỏ đâu anh ơi!”. Bóng ông mất dần trong dòng người đông kịt khi qua cầu An Cựu. Ông già này vừa đi vừa giới thiệu về lịch sử từng nơi như một HƯỚNG DẪN viên đích thực.

Đến với mảnh đất kinh kỳ một thuở, ai cũng muốn đi thuyền trên sông Hương, ngắm nhìn những cây cầu đã đi vào lịch sử như: Phú Xuân, Trường Tiền, Dạ Viên, những công trình như Đại Nội, Phủ Văn Lâu và phố êm ả đôi bờ. Anh Tí nói rằng, chùa Thiên Mụ có tháp Phước Duyên, ra đời từ năm 1844, lại tình cờ trở nên biểu tượng của đất cố đô. Theo yêu cầu của khách, ông chở chúng tôi đến đại nội rồi dừng ở đó để khách đi vào bên trong chụp ảnh.

Dù du khách ít nhưng không có cảnh chen lấn, giành khách mà đẵn là khách quen giới thiệu bởi đời sông nước là phải giúp nhau mà sống. Một ngọn tháp biểu tượng cho “trí tuệ” và “phúc lành” ngày ngày soi bóng xuống sông Hương.

Khi dừng xe ở một điểm mua quà lưu niệm, uống vội ly trà đặc sản, ông Hiền san sẻ, gia đình ông đã có ba con, tuốt đều là thợ sửa xe, không có ai làm nghề nặng nhọc như ông.

Đón chúng tôi ở bến Tòa Khâm, đường Bạch Đằng (phường Phú Hiệp), chị Thành khua mái chèo để đẩy con thuyền ra giữa dòng. (CATP) Phía sau sự trằm trồ, khâm phục của viễn khách về các công trình đền đài, lăng mộ của quần thể di tích cố đô (được Unesco xác nhận di sản thế giới từ năm 1993), ở Huế còn đó bao phận người chịu thương, chịu thương chịu khó.

Tui sẽ đến ngay!”. BỌT SÓNG HƯƠNG GIANG  Vạn đò trên sông Hương có lịch sử lâu đời. Chỉ dẫn VIÊN DU LỊCH KHÔNG CHUYÊN   Khi đã lên bờ rồi, thể nào du khách cũng chọn xích lô là phương tiện để dạo phố, ngắm nhìn sự trầm mặc của đất vua xưa và chụp ảnh hơn là đi taxi.

Họ lặng thầm mang đến niềm vui cho du khách để kiếm những đồng tiền khó nhọc lo cho tổ ấm. Dáng ông nhỏ thó nhưng ý thức thì rất sáng suốt. Khi đi trên đường Lê Lợi ngắm vườn tượng của công viên, chúng tôi được một bác xích lô vẫy tay. Tôi hiểu tâm tình và máu nóng của ông Hiền khác biệt với nhiều trọng điểm du lịch của Việt Nam bởi có một thực tế đáng buồn là 80% du khách nước ngoài đến với chúng ta đã một đi, không trở lại bởi cách làm du lịch chụp giật và manh mún.

Ông Hiền bảo: “Đó còn là bổn phận, trách nhiệm và sự tự hào của người dân địa phương đối với bạn bè trong và ngoài nước. Theo một giả thuyết thì việc thành lập các vạn đò trên sông Hương được manh nha từ thời Minh Mạng đến thời Tự Đức.

Sau đại nội, ông chở khách đến Trường Quốc học Huế, đến phường Vĩ Dạ nơi Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, đến chợ Đông Ba hay An Cựu để khách mua ớt cay về Sài Gòn làm quà.

Đối với dân vạn đò thì chuyện đó không hề hấn gì. Mái ấm này có ba cháu nhỏ là: Nguyễn Thị Ni, học trò lớp 10 Trường THPT Hoàng Văn Thụ; Nguyễn Thị Vỹ, học trò lớp 7, Trường THCS Hương Hồ; Nguyễn Đức Trường, học trò lớp 4, Trường tiểu học Hương Hồ. Họ sót lại sau những phút giây hoan hỉ của lữ thứ xa gần. Ông lau vội những giọt mồ hôi trên khuôn mặt và lưng áo rồi nhắn: “Khi nào cậu ra Huế, hãy gọi cho tui nhé.

Thiên Mụ với tháp Phước Duyên lại cho người ta cả hai: Ngước lên trời cao để chiêm ngưỡng cuộc đời, số, cái cao xa và lại cùng bóng chùa soi mình xuống dòng Hương để quan chiêm bóng Phật, nghĩ về dòng sông huyền thoại. Ông nói bằng giọng vui: “Nghề này cũng cực lắm, làm vài năm nữa chắc tui cũng giã từ vì già rồi, đạp không nổi đâu”.

Ông tên là Dương Văn Hiền (57 tuổi, ngụ phường Phú Xuân) đã có hơn 20 năm gắn bó với nghề mang niềm vui cho lữ thứ.

Từ năm 2006, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã có đề án đưa hết thảy dân vạn đò trên các dòng sông của thị thành Huế lên bờ định cư với tổng kinh phí dự định khoảng 236 tỷ đồng. Dưới ánh nắng chiều nhè nhẹ, anh Tí tâm can: “Từ tết cho đến tháng tư dương lịch thì khách đông, còn những tháng này đến cuối năm thì ít khách dần, không đủ tiền chợ nên chúng tôi phải đi chở cát thuê trên sông.

Nếu thuê từ chiều tối thì giá chỉ còn phân nửa vì chỉ ghé được chùa Thiên Mụ. Sống nhờ nghề này là bao cư dân vạn đò đã có nhiều đời gắn bó với con sông huyền thoại, trong đó có vợ chồng anh Nguyễn Đức Tí (40 tuổi) - Lê Thị Thành (39 tuổi). Theo đó, đề án đã diễn ra trong 5 năm, từ năm 2006 cho đến cuối năm 2011.

Có vị khách say quá bị rớt xuống nước, anh chị lại là “rái cá” quăng mình xuống dòng nước lạnh buốt để cứu sống họ mà giữa dòng sâu từ sáu đến mười hai mét. Muốn như vậy thì mỗi công dân Huế hãy là một sứ giả du lịch”.

Sau khi chính quyền di dời xóm vạn đò lên bờ, gia đình anh về tá túc ở phường Hương Hồ. Giữa những khách sạn, tòa nhà cao tầng đang làm nên một dung mạo mới lạ của một đô thị, ở Huế vẫn còn lắm người sót lại sau những cuộc vui của du khách.

Anh Tí thì lúi húi nổ máy ở phía cuối con thuyền. Với những vị khách yêu cầu ngủ trên thuyền vào buổi tối, vợ chồng anh Tí luôn sẵn sàng để phục vụ. Chúng tôi đã đi vào mọi ngõ ngách ở đây và nhận thấy giá thực phẩm, ăn uống, dịch vụ cũng rất rẻ nên dễ dàng lí giải, giá vận chuyển rẻ là thành ra. Chiếc xích lô ở Huế rất khác lạ bởi nó chia làm hai băng ghế để chở được cả hai người, giá một tour dạo khắp đô thị chỉ có năm chục nghìn đồng.

Làm sao để họ còn quay lại với mình mới là chuyện quan yếu. Khi khách đàn hát, ăn nhậu thâu đêm, anh chị phải cố thức để neo thuyền và bảo đảm an toàn.

Thông thường, nếu khách thuê cả ngày thì vợ chồng anh sẽ đưa đến lăng Khải Định, Tự Đức, Minh Mạng.

Bác tài xích lô không nói thách, không hạ giá bởi có một giá bất di bất dịch mà nửa đời người, ông Hiền vẫn thực hiện. Với giá này, mọi người đến Huế đều cho là rất rẻ.