Đọc sách Cây bút của núi rừng Tây Nguyên Đầu tiên, có lẽ vì một sự gặp gỡ trong tính cách ngang tàng phiêu lãng không ngừng nghỉ với núi rừng, hít thở, ăn nằm, học hỏi và lớn lên trong cái minh triết của núi rừng. Trong cuộc phiêu lãng đầy tự do đó, Nguyễn Hàng Tình đồng cảm và kể câu chuyện những thân phận cũng phiêu bạt, di dịch mà anh gặp trên đường: nhóm nông dân miền xuôi di cư mạn ngược để làm thuê trong mùa thu hoạch càphê (Mùa dân cày di cư), những người “len ong” trong mùa khô Tây Nguyên (Một kiếp theo ong), những người chăn bò du mục yêu tự do trên thảo nguyên M’Drăk (Trên thảo nguyên M’Drăk) hay những ngư phủ sống “cuộc thế không kịch bản”, giang hồ khắp cõi Đông Dương một hôm cất câu vọng cổ buồn ray rứt giữa đại ngàn (Ngư phủ trên núi)... Anh viết về họ như họ là người đồng thuyền, đồng hành với mình. Trong những thiên phóng sự, bút ký của Nguyễn Hàng Tình, nhân vật dù là anh chàng mười sáu tuổi đánh xe thổ mộ ở thị trấn Dran hay nhà sáng chế chiếc máy gặt lúa, từ ông chủ nông trại nho gốc Pháp tại Tà Nung hay một hành giả chủ nông trại lan trên cao nguyên Lang Biang... Bít tất đều mang trong mình cái hắc búa của những sinh phận quen trôi dạt và phần nào đó, họ có cái kiêu hãnh trong cô đơn, tự do trong dấn thân. Và nữa, họ có cái nghệ sĩ tính trong hành xử với thế cục. Những trang ký sự nhân vật không chỉ biểu thị rõ nét chân dung, tâm hồn con người, mà phản ánh bóng dáng tính cách, gửi gắm suy tư của người viết, một nhà báo độc lập tìm thấy sự san sẻ trong khát vọng, ý hướng sống. Tiếng kêu nhói lòng cho thiên đường đã mất Nhưng nói đến Nguyễn Hàng Tình, có nhẽ đặc sắc nhất vẫn là những thiên ký sự về một thiên đàng đã mất – đó là rừng, là cái mà anh gọi là chốn hoang vu – đang từng ngày từng giờ bị những đầu óc lo liệu thực dụng chủ nghĩa, vô trách nhiệm ra sức đào bới, giành giật, truất hữu. Là Easô của những cuộc tùng xẻo, săn bắn một thời dậy sóng dư luận (Easô, Khu rừng chìm nổi), là những mảng rừng Ninh Sơn, Ninh Thuận bị xóa trắng với cái lý lẽ lẩn quẩn cùng cực của đám lâm tặc (Nước mắt lâm tặc), là câu chuyện con voi quậy ở núi rừng Đạ Tồn như chứng cứ cho một thảm kịch về môi trường (Vác đơn đi kiện voi rừng), hay sự biến mất của những dòng thác đẹp nhẵn vì các dự án thủy điện đã giết chết những dòng sông Tây Nguyên (Đi tìm thác đổ)... Những trang viết với thông điệp trực tiếp, mạnh mẽ, không chỉ dừng ở tính thông tin nhất thời, mà đi đến chất thơ trong miêu tả khiến ta nuối tiếc, chạm đến cái hí hước cay đắng khiến ta bùi ngùi day dứt. Chất nhân cảm, sự tinh tế, hàm lượng suy tư nhào trộn trong một phong cách văn học khoáng đạt thiên nhiên là điều làm nên sức sống vượt trên thời sự của ký Nguyễn Hàng Tình. Nền văn minh thảo mộc đã bị thất thủ. Đây đó trong những cánh rừng còn sót lại, Nguyễn Hàng Tình tìm cách phơi bày cái thực trạng tệ hại nơi những lời khẩn cầu đầy nhố nhăng cất lên nơi xác cổ tháp Yang Prông hoang tàn sót lại giữa rừng sâu (Sự suy tư của cổ tháp giữa rừng già), của những vụ thanh toán đẫm máu, thế giới đen tối túng quẫn trong các lán trại vàng thượng nguồn dòng Da Dang, Krông Ana (Thế giới “bờ bãi”), của lối đánh cá tận diệt trên hồ Lăk (Quần thảo hồ Lăk), chính sách phá rừng trồng cao su đầy thiển cận phá vỡ hệ sinh thái rừng ở Ia Puch, Ia Boòng, Ia Mer (Mủ cao su thiêu bóng Chư Prông)...
Đọc ký của Nguyễn Hàng Tình, bạn đọc nghe ra trong tiếng chiêng chuyển “chức năng” của giàn cồng chiêng phục vụ du lịch hàng đêm ở trên núi Lang Biang hay sự đổi đời của những dũng sĩ săn voi ở Buôn Đôn trở thành kẻ nài voi phục vụ du lịch... Không phải là những tín hiệu sáng sủa cho văn hóa Tây Nguyên như những bài báo cưỡi ngựa xem hoa tán tụng hương xa, mà sâu xa, là tiếng kêu nhói lòng về một cõi minh triết (theo cách nói của Jacques Dournes) đã mất. Thông điệp trả rừng cho Tây Nguyên đưa ra lúc này có thể đã muộn. Lời “giã biệt hoang sơ” của một tấm lòng hiếu thảo với rừng núi biết sẽ không còn đủ sức lay động, hay kịp ngăn chặn những cỗ máy man rợ cào vét tài nguyên, nhưng nó vẫn là một lời từ giã tử tế của một ngòi bút có bổn phận, dấn thân, là bản lĩnh của một ký giả với vùng đất mình gắn bó. Những trang viết của Jacques Dournes chỉ nói cái mênh mang tự do, hào hoa bay bổng của những cuộc hành trình trải ra trước mắt kẻ lữ khách với “gùi trên vai và giáo cầm tay”, đi mải miết trong chốn rừng sâu núi thẳm, qua những làng mạc xa lạ, chinh phục những nẻo đường mới, xuyên những miền không gian, thời kì mơ màng. Ông không nói về những hiểm nguy làm nên mùi vị, sức thu hút và biết bao day dứt, kể cả tổn thương phía sau những chuyến phiêu du. Nguyễn Vĩnh Nguyên (Đọc giã từ hoang sơ, ký sự Nguyễn Hàng Tình, Phương Nam Book & NXB Hội Nhà Văn, 2013)
|