Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Phát triển dịch vụ: Đến lúc trọng truyền hình HD chất hơn trọng giá

Nông sản, thực phẩm sau khi hút chân không thường được bán giá cao hơn vì đem lại sự yên tâm hơn cho khách hàng.

Thiếu chất “xám”, mức lan tỏa thấp

Kinh tế toàn cầu suy thoái đã và đang thúc đẩy nhiều nhà nước tiến hành tái cấu để đảm bảo phát triển nhanh và vững bền. Tâm điểm của tái cấu trúc kinh tế là nâng cao hiệu quả, đốn phê duyệt hai quá trình là nâng cao hiệu quả của các lĩnh vực kinh tế đang hoạt động và chuyển dịch nguồn lực sang các lĩnh vực mới có hiệu quả kinh tế cao hơn. Không nằm ngoài xu hướng chung, Việt Nam đã và đang tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt hướng tới một nền kinh tế dịch vụ kiến thức.

Tuy nhiên, PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN đánh giá: “Ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng chưa vững bền”. Thực tại, một số đích như duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dịch vụ khoảng 7-8%/năm tuổi 2001-2010 đã đạt được. Đích nâng cao tỷ trọng trong GDP của ngành dịch vụ (2002 –2011) lên khoảng 42-43%, tỷ trọng GDP thực tiễn của ngành dịch vụ chỉ đạt 37-38%, thấp hơn mức trung bình của thế giới và thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á như Philippines, Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Thương nghiệp dịch vụ thâm hụt cao, chuyên môn hóa thấp. Hiệu quả đầu tư ở ngành dịch vụ thấp hơn hiệu quả đầu tư ở ngành sản xuất và ở toàn nền kinh tế. Ông Nguyễn Hồng Sơn nhận định thêm: “Khả năng phát triển các ngành dịch vụ tại Việt Nam còn thấp và chừng độ lan tỏa chưa cao”.

Sở dĩ, các nhà nước đều muốn tăng tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế (Dịch vụ chiếm tới hơn 60% GDP tại các nước phát triển) là do “Dịch vụ đóng góp nhanh nhất vào tăng trưởng kinh tế thế giới, chiếm tới hai phần ba đầu ra của kinh tế thế giới, đứng thứ ba về tạo việc làm và chiếm 20% thương nghiệp toàn thế giới”, ông Nguyễn Hồng Sơn giải thích. Kể từ khi Việt Nam nhập WTO, việc ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực dịch vụ đã có bước phát triển nhanh, mạnh. PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn đưa ra tỉ dụ: Một lạng chè thường giá vài ba chục nghìn nhưng chỉ cần đầu tư thêm dịch vụ đóng gói hút chân không thì chè bán ra sẽ có giá gấp cả chục lần. Ở một tỉ dụ khác, trong vài năm gần đây, nhiều dân cày đã tự nghiên cứu, làm khuôn để tạo ra những trái dưa đỏ vuông hay bưởi hồ lô… có giá bán cao gấp nhiều lần trái thường.

Lấy chất lượng làm điểm đột phá

Tuy nhiên, các doanh nghiệp dịch vụ ở Việt Nam có quy mô còn nhỏ, mức độ chuyển hóa thấp, thiếu hụt các quy trình và chuẩn mực của quá trình cung cấp dịch vụ cũng như chuỗi cung ứng dịch vụ, các kỹ năng thực hiện dịch vụ chưa cao, còn thiếu công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông báo. Thành thử, ông Sơn cho rằng, dù Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào ngành dịch vụ song hiệu quả chưa cao, tốc độ tăng trưởng khá nhưng tỷ trọng trong GDP vẫn thấp. Nên để vượt qua được tình trạng này, ông Sơn cho rằng: “chất lượng dịch vụ được xem là một trong những điểm đột phá” nhằm nâng cao năng suất chất lượng dịch vụ, thúc đẩy ngành này phát triển nhanh, chất lượng, hiệu quả và vững bền theo chiều sâu trong dài hạn, từ đó nâng cao năng lực canh tranh của tất nền kinh tế.

Tán thành với các quan điểm cho rằng khoảng cách công nghệ dịch vụ của Việt Nam so với thế giới vẫn chưa được thu hẹp đáng kể, GS.TS Nguyễn Văn Bình thuộc liên hợp Khoa học phát triển Du lịch bền vững đưa ra những so sánh.

Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ, sản phẩm của nó là tổng hợp các dịch vụ cung ứng cho khách du lịch. Theo tài liệu do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) ấn hành, ngành “du lịch và lữ hành hiện chiếm khoảng 9,9% GDP, 10,9 % xuất khẩu, và 9,4% đầu tư của thế giới”. Xuất khẩu du lịch chiếm khoảng 30% của xuất khẩu dịch vụ toàn thế giới và 6% quơ xuất khẩu hàng hóa. Việt Nam được xếp vào danh sách “Các điểm đến mới hàng đầu thế giới tuổi 1995-2004“và là một trong số các nước có mức tăng trưởng cao của Châu Á - yên bình Dương. Tuy nhiên nhìn vào số liệu về tỷ lệ lượng du khách đến của mỗi nước trên tổng số khách đến trong khu vực cho thấy thành quả của ngành du lịch Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, đặc biệt so sánh với Thái Lan và Malaysia. Ngoại giả, doanh thu của du lịch Việt Nam cũng không tương xứng với số lượng khách đến. Thí dụ lượng khách quốc tế của Phillippines thấp hơn Việt Nam khá nhiều (1,7% - 2,3%) nhưng doanh thu của Phillippines lại vượt Việt Nam đáng kể (2,2% - 1,8%). Duyên do căn bản là do chất lượng dịch vụ du lịch còn kém, ông Nguyễn Văn Bình khẳng định và chỉ ra một số khía cạnh.

Việc tổ chức tour còn bất hợp lý, mang tính “chạy sô nhiều do tham lam” muốn giới thiệu vơ tài nguyên chỉ trong một chuyến đi nên bỏ phí nguồn tài nguyên. Thí dụ như chương trình city tour Hà Nội chỉ gọn trong một ngày, rồi cơm tối, rối nước, sáng xuất hành rời Hà Nội. Còn có hiện tượng các tour trùng lắp, do chưa đầu tư nghiên cứu kỹ các nguồn tài nguyên, nên ít sáng tạo các sản phẩm đặc thù. Thậm chí có doanh nghiệp ăn trộm ý tưởng, nhái ý tưởng, quảng bá sai với thực tại, khác với sự trông đợi của khách. Bên cạnh chất lượng cơ sở hạ tầng như đường sá, bến bãi, nhà ga, thông báo, thanh toán... Còn yếu thì việc quy hoạch các điểm dừng chân cũng chưa tốt. Đối với chất lượng dịch vụ tạm trú vẫn còn hiện tượng bảo kê bao giá, kinh doanh chộp giật, cò mồi, chèo kéo, gian dối, thiếu trọng khách hàng. Nhiều di tích lịch sử văn hóa chưa được bảo tàng đúng cách, hoặc bị xâm hại vì những nhóm ích, hoặc khẩn hoang chưa đúng cách. Nguồn nhân công được đào tạo ra chưa đáp ứng ngay, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ và tri thức của hàng ngũ chỉ dẫn viên còn yếu.

Khổng thể thiếu ba đại diện

PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn cho rằng, nâng cao chất lượng dịch vụ trên phạm vi nhà nước chỉ có thể phát triển nếu có sự dự đầy đủ của ba đại diện, gồm quốc gia đóng vai trò điều tiết, định hướng, chỉ đạo, tài trợ duyệt y các chương trình, dự án trọng điểm; Doanh nghiệp là nơi vận dụng các giải pháp nâng cao chất lượng nhằm nâng cao năng lực quản trị dịch vụ bao gồm thiết kế sản phẩm dịch vụ, quản lý quá trình cung cấp dịch vụ và chuỗi cung ứng dịch vụ, đào tạo nhân lực,… Và rốt cuộc là các cơ quan khoa học và nghiên cứu tham vấn đóng vai trò nghiên cứu, phân tích, đánh giá các nhân tố tác động đến sự cải thiện chất lượng, giới thiệu các khuynh hướng và giải pháp tiền tiến nhằm nâng cao chất lượng, từ đó tăng năng suất và hiệu quả ở cả cấp độ quốc gia và doanh nghiệp.

PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn khuyến nghi: “Cần nhấn mạnh yếu tố chất lượng của dịch vụ chứ không phải giá cả. Coi việc nâng cao năng suất trong ngành dịch vụ là một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, cần khuyến khích phát minh, sáng tạo, cùng với xúc tiến cạnh tranh hơn nữa trong ngành dịch vụ và lwah chọn phát triển một số ngành dịch vụ ưu tiên.

XUÂN BÁCH