Theo thưa của Bộ cần lao -Thương binh và tầng lớp, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 22% (năm 2005) xuống còn 9,6% (năm 2012). Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo tuổi 2005-2012 chưa vững chắc,chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía bắc và Tây Nguyên. Tỷ lệ hộ tái nghèo, phát sinh nghèo hằng năm còn cao, bình quân mỗi năm có khoảng 1/3 hộ tái nghèo và nảy nghèo mới so với tổng số hộ thoát nghèo. Sự chồng chéo của hệ thống chính sách giảm nghèo đang trở thành yếu tố ngăn trở hiệu quả thực hành các chính sách và mục tiêu giảm nghèo. Sự chồng chéo về chính sách tuy không chồng chéo về nguồn lực nhưng dẫn tới sự dàn trải, phân tán nguồn lực đầu tư trong khi khả năng bố trí ngân sách quốc gia còn hạn chế, làm ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư của các công trình, chính sách, các địa phương, cơ sở không chủ động được việc bố trí nguồn vốn theo nhu cầu... Thực hiện đích, nhiệm vụ năm 2014 và định hướng giảm nghèo đến năm 2015, phấn đấu giảm tỷ lệ nghèo cả nước từ 7,8% năm 2013 xuống còn 5,8 đến 6% vào cuối năm 2014; riêng tỷ lệ nghèo ở các huyện thuộc diện 30a giảm bình quân 4%/năm (từ 38,2% năm 2013 xuống còn 34,2% năm 2014). Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn dưới 5% theo chuẩn nghèo hiện hành, tỷ lệ nghèo ở các huyện nghèo còn dưới 30%... Tại hội nghị, các địa phương đã tụ hợp trao đổi về những khó khăn, hạn chế, nguyên cớ cũng như bài học kinh nghiệm trong quá trình khai triển các chính sách giảm nghèo tại địa phương và đưa ra các đề xuất trong việc thiết kế chính sách
Phát biểu ý kiến tại hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh khẳng định: Giảm nghèo vững bền là đích lâu dài gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của sơn hà, do đó cần kiên trì thực hiện đích đề ra trong cả hoạch định chính sách và tổ chức thực hành. Phó Thủ tướng yêu cầu, việc sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách giảm nghèo cần đảm bảo sự hợp nhất, có lồng ghép, lấy đích giảm nghèo làm trọng điểm. Phân loại các nhóm đối tượng nghèo và có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với các nhóm này; giảm dần chính sách tương trợ trực tiếp "cho không", tăng dần các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, học nghề, tạo việc làm, khuyến khích người nghèo tự chủ vươn lên thoát nghèo. Việc xây dựng, ban hành chính sách tương trợ mới cần theo hướng mở rộng đối tượng là hộ mới thoát nghèo và hộ cận nghèo nhằm hạn chế tình trạng tái nghèo... Nối ưu tiên các nguồn lực để thực hành các chính sách giảm nghèo; soát, loại bỏ các chính sách, chế độ chồng chéo, không hiệu quả để bảo đảm tính hiệu quả của chính sách và tính khả thi trong bố trí nguồn lực thực hiện. Các địa phương phải cụ thể hóa mục tiêu chương trình giảm nghèo vào các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - tầng lớp hằng năm của địa phương. Nhân rộng các mô hình, tiêu biểu làm tốt về giảm nghèo để phấn đấu, các nơi học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm trong quá trình khai triển thực hiện... * Ngày 23-4, tại Hà Nội, Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (QH) đã nghe dự thảo thưa kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, luật pháp về giảm nghèo tuổi 2005 - 2012 của Ủy ban Thường vụ QH. Đây là chương trình giám sát thực hành tại nhiều bộ, ngành có can hệ, tổ chức đoàn giám sát đến 15 tỉnh, tỉnh thành và trực tiếp gặp gỡ, thảo luận với đối tượng người nghèo ở 30 thôn, ấp, bản tại nhiều địa phương. Biểu lộ vắng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề tầng lớp của QH Đỗ Mạnh Hùng cho biết: Từ năm 1993 đến nay, công tác xóa đói, giảm nghèo ở nước ta đi qua bốn tuổi chính. Quan điểm xuyên suốt của Đảng, quốc gia ta là chính sách giảm nghèo vừa là mục đích, vừa là đề nghị, là chỉ tiêu gắn với phát triển kinh tế -xã hội (KT-XH) toàn diện, góp phần đảm bảo an sinh và công bằng từng lớp. Việc tổ chức thực hành chính sách, luật pháp về giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhìn chung, ở cấp quốc gia, thành quả có thể thấy rõ ở cả chuẩn quốc gia và chuẩn quốc tế. Cho ý kiến bổ sung vào báo cáo thẩm tra, các đại biểu cho rằng căn nguyên của những hạn chế trong chính sách giảm nghèo là do công tác quản lý quốc gia, sự kết hợp trách nhiệm giữa các bộ, ngành trong thực hiện chính sách giảm nghèo vẫn còn phân tán, thiếu liên kết, chưa lồng ghép được các chính sách. Việc huy động các nguồn lực gặp khó khăn là nguyên cớ dẫn đến những hạn chế trong công tác giảm nghèo. Một số địa phương vẫn chưa được sự quan hoài đúng mức từ cấp ủy đảng, chính quyền là căn nguyên hạn chế trong công tác giảm nghèo... Trên cơ sở mỏng kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo thời đoạn 2005 - 2012, nhiều ý kiến đề nghị QH ban hành Nghị quyết về "Đẩy mạnh thực hành chính sách, luật pháp giảm nghèo giai đoạn 2015 -2020"; kiến nghị Chính phủ khẩn trương rà các văn bản can dự đến chính sách, pháp luật giảm nghèo, tụ họp, sắp xếp hợp lý theo hướng giảm số lượng văn bản, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp, phân định bổn phận rõ ràng, đảm bảo cân đối nguồn lực cho các chính sách. Ít kết quả giám sát "Việc thực hiện chính sách, luật pháp về giảm nghèo, tuổi 2005 -2012" sẽ được trình Ủy ban Thường vụ QH coi xét cho quan điểm trước khi trình QH tại kỳ họp thứ 7 tới. Chiều qua, các thành viên Ủy ban các vấn đề xã hội của QH đã đóng góp quan điểm về dự thảo quan điểm của Ủy ban về tình hình KT-XH sáu tháng đầu năm và đến cuối năm 2014; dự thảo mỏng hoạt động giữa hai kỳ họp; cho ý kiến thẩm tra các dự án luật trình tại kỳ họp thứ 7, QH khóa XIII. PV |